Bộ Y tế có khuyến cáo không gây tê tuỷ sống (GTTS) trong mổ lấy thai các trường hợp nhau tiền đạo trung tâm, bán trung tâm, nhau bong non, tiền sản giật nặng, sản giật vì có nguy cơ cao xảy ra một số tai biến như thuyên tắc mạch, ngưng tim, rối loạn đông máu, suy đa tạng. Còn lại, việc gây tê tủy sống trong mổ lấy thai là hoàn toàn bình thường.
Sản phụ cần ở tư thế cong lưng để giúp mở rộng cột sống và giữ yên tư thế trong suốt quá trình gây tê ngoài màng cứng. Thủ thuật này còn có thể thực hiện ở tư thế nằm nghiêng, nhưng sẽ dễ thực hiện hơn khi ngồi ở tư thế sát cạnh giường và đầu dựa vào vai
Gần đây, một số địa phương xảy ra các trường hợp tử vong bà mẹ, trẻ sơ sinh có liên quan đến tai biến sau thủ thuật vô cảm bằng phương pháp gây tê vùng (bao gồm gây tê tủy sống đơn thuần trong mổ lấy thai, gây tê ngoài màng cứng để giảm đau khi sinh) - Bộ Y tế cho biết.
Gây tê tủy sống là một trong số những phương pháp vô cảm được sử dụng nhiều trong thời gian gần đây. Bằng việc đưa thuốc gây tê vào tủy sống và trong dịch não tủy. Gây tê tủy sống thường được sử dụng trong các phẫu thuật vùng khung chậu, tiểu khung và chi dưới.
Trước khi tiến hành gây tê tủy sống, bác sĩ sẽ giải thích và hướng dẫn cho mẹ tư thế chuẩn bị tiến hành thủ thuật. Quy trình sinh mổ diễn ra khá nhanh và đảm bảo an toàn. Sau khi vệ sinh cho bé, mẹ và bé cũng sẽ được gặp nhau và tiến hành áp da.
Vay Tiền Nhanh Chỉ Cần Cmnd. Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Bác sĩ chuyên khoa I Nguyễn Đức Thông - Bác sĩ Gây mê hồi sức - Khoa Ngoại tổng hợp - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Đà Nẵng. So với gây mê thì gây tê là biện pháp giảm đau khi sinh mang lại nhiều ưu điểm , gây tê tủy sống là kỹ thuật giảm đau được thực hiện trước khi tiến hành mổ lấy thai nhằm giúp sản phụ vượt cạn dễ dàng, không cảm thấy đau đớn. Trong bài viết này, đưa ra một số đánh giá cập nhật hiện nay về phòng ngừa và xử trí hạ huyết áp sau tê tủy sống mổ lấy thai. Gây tê tủy sống hiện là phương pháp vô cảm phổ biến trong mổ lấy thai. Hạ huyết áp ở mẹ là biến chứng thường gặp sau tê tủy sống gây ra hậu quả bất lợi cho mẹ và thai. Phòng ngừa và điều trị hạ huyết áp sau tê tủy sống vẫn liên tục được nghiên cứu. 2. Biến chứng gây tê tủy sống Biến chứng về thần kinhLiệt, tổn thương thần kinh Đây là biến chứng rất hiếm gặp. Có nhiều nguyên nhân gây ra tổn thương thần kinh sau gây tê như do kim gây tê/catheter, do chèn ép, máu tụ ngoài màng cứng, thiếu máu nuôi thần kinh, hay độc tính của thuốc tê lên dây thần kinh. Thông thường bên cạnh mất cảm giác đau người bệnh cũng sẽ liệt vận động vùng được gây tê. Tuy nhiên, vận động và cảm giác sẽ hồi phục sau khi hết tác dụng của thuốc tê khoảng 4 – 6 giờ. Nếu các triệu chứng này kéo dài cần báo ngay cho nhân viên y chứng chùm đuôi ngựa Thường có triệu chứng đau thắt lưng, tê quanh hậu môn và tiêu tiểu mất tự đầu Đây là triệu chứng thường gặp sau gây tê tủy sống, thông thường triệu chứng sẽ tự khỏi trong vòng 7 ngày. Nếu triệu chứng gây khó chịu đáng kể có thể sử dụng các thuốc giảm đau. Trong trường hợp đau đầu không tự khỏi trong 7 ngày hoặc đau đầu dữ dội, cần đến ngay các cơ sở y tế để được hỗ trợ. Để ngăn ngừa đau đầu sau tê tủy sống, người bệnh cần nằm yên nghỉ ngơi trên giường trong 24 giờ sau gây tê và không ngóc đầu dậy. Hội chứng chùm đuôi ngựa là biến chứng về thần kinh có thể gặp sau khi gây tê tủy sống Biến chứng về tim mạchHạ huyết áp hạ huyết áp sau gây tê tủy sống là triệu chứng thường gặp khi gây tê tủy sống, triệu chứng thường gặp đầu tiên là buồn nôn, nôn. Khi cảm thấy dấu hiệu này cần báo ngay cho nhân viên y tế tim chậm Tùy thuộc vào mức độ, người bệnh sẽ được xử trí bằng các thuốc thích Biến chứng về hô hấpKhó thở và ngừng thở là biến chứng có thể gặp khi gây tê. Người bệnh sẽ được thở oxy trước, trong, sau thủ thuật và các biện pháp hỗ trợ hô hấp khác nếu Nhiễm trùngTiêm thuốc tê vào cột sống có thể gây viêm màng não mủ hay áp xe ngoài màng cứng. Tuy nhiên, biến chứng này hầu như không xảy ra do được phòng ngừa rất tốt bằng các biện pháp vô trùng trong lúc thực hiện thủ Đau lưngSau khi thực hiện gây tê trục thần kinh trung ương, một số người bệnh cảm thấy đau lưng ở vị trí chích kim. Triệu chứng này có thể cải thiện bằng cách sử dụng kim nhỏ nhất có thể chọn kim 29G, tránh chọc kim nhiều lần bằng cách siêu âm xác định khe đốt sống trước khi gây tê, có thể sử dụng các thuốc giảm Bí tiểuThuốc tê có thể ức chế các rễ thần kinh điều hòa hoạt động bài tiết nước tiểu. Do đó, người bệnh thường cảm thấy bí tiểu sau mổ. Triệu chứng này có thể giải quyết bằng cách mát xa vùng bụng dưới, chườm nóng vùng bóng đái; nếu không thể tiểu được thì đặt thông tiểu ống dẫn nước tiểu để tháo nước tiểu ra. Sau khi hết tác dụng của thuốc tê, bí tiểu có thể cải NgứaCó thể gặp sau gây tê tủy sống nếu bác sĩ pha thêm thuốc giảm đau họ morphin vào thuốc tê để làm tăng thời gian tác dụng. Dấu hiệu này thường tự cải thiện. Tình trạng bí tiểu thường gặp sau khi mổ lấy thai 3. Xử trí và phòng tránh Truyền DịchMặc dù sử dụng phác đồ truyền dịch được xem như một phương pháp cổ điển trong thực hành gây tê sản khoa, nhưng những bằng chứng gần đây đã đặt nghi vấn cho giá trị này. Một số tác giả đã báo cáo rằng gây tê tủy sống trong dân số sản khoa đi kèm tăng hơn là giảm cung lượng tim. Sự phát hiện này làm cho truyền dịch để phòng ngừa hạ huyết áp sau tê tủy sống không như là giả thuyết. Hơn thế nữa, việc truyền dịch ở sản phụ được báo cáo là phá vỡ glycocalyx. Glycocalyx là một lớp giàu carbohydrate lót trong nội mô đóng vai trò duy trì tính nguyên vẹn của nội mô. Sự phá hủy glycocalyx nội mô được báo cáo là nguyên nhân gây ra thất bại để truyền dịch phòng ngừa hạ huyết áp sau tê tủy sốngTruyền dịch trước mặc dù truyền dịch tinh thể trước hơn hẳn chế độ không truyền, nhưng tỉ lệ hạ huyết áp với tất cả chế độ truyền dịch trước vẫn cao. Theo đánh giá mới nhất từ cơ sở dữ liệu Cochrane, truyền trước dung dịch keo tốt hơn so với truyền dịch tinh thể ; tuy nhiên , các nghiên cứu có kiểm soát ngẫu nhiên so sánh dung dịch keo và dịch tinh thể truyền trước cho thấy bằng chứng mâu thuẫn dịch cùng lúc giải thích hiện được chấp nhận nhất cho giá trị giới hạn dịch truyền trước là phân bố nhanh dịch trong khoang ngoài mạch. Đây là nguyên nhân của sự phát triển quan niệm truyền dịch cùng lúc mà dịch được cho truyền nhanh đồng thời với tê tủy truyền dịch nhanh cùng lúc, sự tái phân bố dịch có thể hạn chế bởi dãn mạch đồng hết các báo cáo cho thấy truyền dịch cùng lúc hơn hẳn hoặc ít nhất giống như truyền dịch trước khi so sánh hai protocol cùng dùng chung một loại dịch. Dịch tinh thể truyền cùng lúc hơn hẳn dịch tinh thể truyền trước và tương đương dịch keo truyền trước. Dịch keo truyền cùng lúc không hơn dịch keo truyền so sánh các loại dịch khác nhau, dịch tinh thể truyền cùng lúc tương tự dịch keo truyền cùng lúc. Tuy vậy, thể tích dịch cần thiết với dịch keo ít hơn thể tích dịch tinh thể. Thuốc co mạch có thể làm giảm hạ huyết áp sau tê tủy hơn truyền dịch Sử dụng thuốc co mạchLựa chọn thuốc co mạch Sử dụng thuốc co mạch được chấp nhận rộng rãi và là phương pháp có hiệu quả để giảm hạ huyết áp sau tê tủy hơn truyền dịch. Phenylephrine là thuốc co mạch thích hợp trong phòng và điều trị bởi vì khởi tác dụng nhanh, thai nhi ít bị nhiễm toan, ít qua nhau, ít nôn và buồn nôn ở mẹ mặc dù có tỉ lệ hạ huyết áp tương tự sau gây tê tủy. Norepinephrine gần đây được nghiên cứu như là một sự thay thế cho Phenylephrine do ít ức chế tim mạch với kết quả đầy triển vọng; tuy nhiên cần nhiều nghiên cứu thêm để bảo đảm đạt được liều tối ưu. Ngoài các đặc tính chống nôn, ondansetron được báo cáo là thuốc dự phòng từ hạ huyết áp sau tê tủy với tác dụng phụ tối thiểu. Mặc dù ít được khuyến cáo hơn, ephedrine vẫn có vai trò trong một số trường hợpNhịp tim chậm Nhịp tim chậm ban đầu hay hạ huyết áp sau gây tê tủy liên quan đến nhịp tim chậm Tác dụng xấu của phenylephrine lên cung lượng tim của mẹ làm cho ephedrine là thuốc được lựa chọn trong trường hợp liên quan đến nhịp tim chậmBệnh nhân với tổn thương chức năng tim Mặc dù không có nghiên cứu so sánh cả hai thuốc trong dân số này, nhưng tác dụng xấu của phenylephrine trên cung lượng tim vẫn được cân nhắc giới hạn sử dụng thuốc trên những bệnh nhân nàySuy giảm chức năng tử cung bánh nhau Phenylephrine làm giảm cung lượng tim của mẹ và tăng sức cản mạch máu ngoại vi, và do đó giảm tưới máu tử cung nhau. Chỉ có một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng có kiểm soát ngẫu nhiên được tiến hành trên những sản phụ có thai suy , không có sự khác biệt giữa ephedrine và phenylephrine đối với điểm số Apgar và pH máu cuống rốn. Trước mổ lấy thai cho sản phụ nằm nghiêng trái có thể giúp giảm chèn ép động mạch chủ Tư thế sản phụCho sản phụ nằm nghiêng trái hoặc kê 1 gối ở hông phải giúp giảm chèn ép động mạch chủ bụng, nhằm hạn chế tụt huyết lớn tư thế có một trong hai mục tiêu như sauGiảm chèn ép động mạch chủTăng lượng máu tĩnh mạch quay vềBệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là một trong những bệnh viện áp dụng nghiêm ngặt các tiêu chuẩn thực hành gây mê phẫu thuật an toàn theo các hướng dẫn quốc tế. Với một đội ngũ bác sĩ và điều dưỡng gây mê giàu kinh nghiệm, cùng với các trang thiết bị hiện đại như máy dò thần kinh, máy siêu âm, hệ thống kiểm soát đường thở khó của Karl Storz, hệ thống theo dõi gây mê toàn diện AoA Adequate of Anesthesia của GE bao gồm theo dõi độ mê, độ đau và độ giãn cơ sẽ mang lại chất lượng cao và an toàn, giúp bệnh nhân gây mê vừa đủ, không thức tỉnh, không tồn dư thuốc giãn cơ sau mổ. Hệ thống Y tế Vinmec cũng tự hào là bệnh viện đầu tiên tại Việt Nam ký kết với Hiệp hội Gây mê Thế giới WFSA hướng đến mục tiêu trở thành bệnh viện an toàn nhất về gây mê phẫu tại Đông Nam có nhu cầu tư vấn và thăm khám tại các Bệnh viện Vinmec thuộc hệ thống Y tế trên toàn quốc, Quý khách vui lòng đặt lịch trên website để được phục vụ. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. XEM THÊM Một số biến chứng, tác dụng phụ của gây tê tủy sống trong phẫu thuật Gây tê tủy sống trong phẫu thuật Chỉ định và chống chỉ định Nguyên nhân gây đau đầu sau gây tê tủy sống
Sức khỏeTin tức Thứ hai, 3/7/2017, 1912 GMT+7 Sản phụ bị nhau tiền đạo, sản giật... nếu mổ lấy thai bằng gây tê tủy sống có nguy cơ cao ngừng tim, suy đa tạng, tắc mạch ối. Bộ Y tế yêu cầu tất cả cơ sở y tế sử dụng phương pháp gây mê nội khí quản thay vì gây tê tủy sống đối với sản phụ bị nhau tiền đạo thể trung tâm hoặc bán trung tâm, nhau bong non, tiền sản giật nặng, sản giật… Lý do là thai phụ mắc tình trạng này có nguy cơ cao gặp tai biến như tắc mạch ối, ngừng tim, rối loạn đông máu, suy đa tạng nếu gây tê tủy sống. Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Viết Tiến cho biết, hiện nay trong quy trình mổ lấy thai trên thế giới đa số bác sĩ dùng kỹ thuật gây tê tủy sống. Một số trường hợp đặc biệt như người mẹ có bệnh tim, huyết áp; nguy cơ chảy máu do nhau tiền đạo, sản giật, tiền sản giật; suy giảm chức năng gan, thận, phổi… thì gây mê toàn thân hay gọi là gây mê nội khí quản an toàn hơn cho người bệnh. Tại Việt Nam, quy trình này vẫn được thực hiện từ trước đến nay. Tuy nhiên, theo dõi, giám sát và thẩm định các ca tử vong mẹ ở nhiều địa phương, Bộ Y tế nhận thấy một số trường hợp "bác sĩ nghĩ là không sao hoặc sản phụ trót ăn nên vẫn gây tê tủy sống". “Thực ra 10 ca gây tê tủy sống thì có thể một ca bị biến chứng như tụt huyết áp, chảy máu, thậm chí nguy cơ ngừng tim, việc cấp cứu cực kỳ vất vả, nguy cơ tử vong cao. Vì thế, để an toàn cho sản phụ, Bộ Y tế yêu cầu gây mê toàn thân trong những trường hợp đặc biệt”, thứ trưởng Tiến nói. Để thực hiện kỹ thuật gây mê toàn thân, người bệnh cần phải nhịn ăn, nhịn đói. Một số trường hợp trót ăn thì phải hút sạch dạ dày. Công việc này phức tạp hơn rất nhiều so với thực hiện thủ thuật gây tê tủy sống.
Tác giả Tạ Quang Hùng - Bác sĩ Gây mê hồi sức, Khoa Ngoại tổng hợp - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Đà Nẵng Mổ lấy thai là phẫu thuật được thực hiện nhiều nhất trong lĩnh vực sản phụ khoa ở tất cả các bệnh viện từ quận huyện đến tỉnh thành phố, bệnh viện trung ương. Đau sau mổ lấy thai ảnh hưởng đến việc vận động sớm và chăm sóc sơ sinh của sản phụ và có nguy cơ biến thành đau mạn tính. Mục tiêu Nhận xét tác dụng giảm đau sau mổ lấy thai và các tác dụng không mông muốn của phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng hai tượng và phương pháp nghiên cứu 40 bệnh nhân có chỉ định mổ lấy thai bằng phương pháp gây tê tủy sống. Sau khi kết thúc mổ, bệnh nhân được theo dõi tại phòng hồi tỉnh. Khi bệnh nhân đau, điểm đau VAS vận động ≥ 4, tiến hành gây tê cơ vuông thắt lưng hai bên, sau đó bệnh nhân được theo dõi trong 24h tại các thời điểm trước khi gây tê, sau gây tê 15 phút, 1h, 6h, 12h, 24h. Trong 24h nếu bệnh nhân đau thì truyền tĩnh mạch perfalgan 1g và voltarel 100mg đặt hậu môn. Ngày tiếp theo cho uống efferalgan 500mg 4 lần/ngày và voltarel 100mg đặt hậu môn khi VAS ≥ quả Thời gian giảm đau sau mổ lấy thai của phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng là 21,57 ± 5,07 giờ, tỷ lệ rất hài lòng và hài lòng của bệnh nhân là 57,5% và 42,5%. Phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng hai bên không ảnh hưởng đến mạch, huyết áp, SpO2 của bệnh nhân và không ghi nhận các tác dụng không mong luận Phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng hai bên là phương pháp gây tê có thể áp dụng để giảm đau sau mổ lấy thai và đem lại sự hài lòng của người bệnh. Thời gian giảm đau sau mổ lấy thai là 21,57 ± 5,07 giờ. Không có tác dụng phụ nào của phương pháp được ghi nhận. Đặt vấn đề Có nhiều phương pháp giảm đau sau mổ lấy thai, trong đó phối hợp morphin với các thuốc tê để gây tê tủy sống, có thể kéo dài thời gian giảm đau sau mổ. Tuy nhiên, phương pháp này có nhiều tác dụng phụ gây phiền hà cho bệnh nhân buồn nôn, nôn, ngứa...15,16Để giảm các tác dụng phụ của các thuốc giảm đau họ morphin, chiến lược giảm đau đa mô thức với vai trò của gây tê vùng dưới hướng dẫn của siêu âm đã được nghiên cứu triển khai, vừa giảm đau sau mổ tốt, vừa giảm mức độ tiêu thụ của các thuốc giảm đau họ morphin, giảm khó chịu cho người bệnh 6,11Phương pháp gây tê vùng được nghiên cứu đầu tiên để giảm đau sau mổ lấy thai trong chiến lược giảm đau đa mô thức là phương pháp gây tê mặt phẳng cơ ngang bụng TAP block, phương pháp này được McDonnell miêu tả năm 200812. Tuy nhiên TAP block cho thấy có nhiều hạn chế do thời gian giảm đau ngắn, chỉ giảm đau chủ yếu ở thành bụng2,9,10.Một tiếp cận mới, an toàn trong giảm đau sau mổ lấy thai là gây tê cơ vuông thắt lưng dưới hướng dẫn của siêu âm được Blanco mô tả đầu tiên vào 20073. So với gây tê mặt phẳng cơ ngang bụng, gây tê cơ vuông thắt lưng được cho là có tác dụng giảm đau tốt và dài hơn. Có 2 giả thuyết giải thích cho điều này, thứ nhất là gây tê cơ vuông thắt lưng làm cho thuốc tê dễ lan vào khoang cạnh sống, bên cạnh đó thuốc còn lan đến một mạng lưới thần kinh giao cảm bên trong cân ngực-lưng làm bền vững tác dụng giảm đau của thuốc tê5,4.Phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng có ít tác dụng phụ, những bệnh nhân được gây tê cơ vuông thắt lưng có mức độ đau ít ở cả lúc nghĩ ngơi và lúc vận động, điều này rất quan trọng để tập phục hồi chức năng sớm sau phẫu thuật nhằm phòng ngừa biến chứng thuyên tắc tĩnh mạch sâu và huyết khối sau mổ1,8.Gây tê cơ vuông thắt lưng là kỹ thuật an toàn, đã được nghiên cứu áp dụng để giảm đau sau mổ mổ lấy thai. Tuy nhiên, ở Việt nam chưa có nhiều nghiên cứu đánh giá tác dụng, cũng như áp dụng kỹ thuật này để giảm đau trong mổ lấy thai. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục đích “Nhận xét tác dụng giảm đau sau mổ lấy thai và các tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng hai bên”. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Bệnh nhân được chỉ định gây tê tủy sống để mổ lấy thai tại bệnh viện ĐKQT Vinmec Đà Nẵng từ tháng 3/2019 đến tháng 5/ chuẩn chọn bệnh Bệnh nhân đồng ý thực hiện các kỹ thuật để mổ lấy thai và gây tê giảm đau sau mổ. Không có chống chỉ định dùng các thuốc dùng trong nghiên cứu. Bệnh nhân có ASA I-II theo phân độ sức khỏe của Hiệp hội Gây mê Hoa chuẩn loại trừ Mổ lấy thai vô cảm bằng phương pháp gây mê toàn diện hoặc phải thay đổi phương pháp vô cảm trong mổ. Bệnh nhân có tiền sử bệnh lý thần kinh, tiền sử đau mạn tính. Bệnh nhân dị ứng với các thuốc dùng trong nghiên pháp nghiên cứu* Thiết kế nghiên cứuNghiên cứu mô tả, phân pháp chọn mẫu Chọn mẫu thuận tiện, phù hợp tiêu chuẩn chọn bệnh, trong thời gian tiến hành nghiên điểm nghiên cứu Tiến hành nghiên cứu tại khoa Ngoại tổng hợp và khoa Sản Bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec Đà Nẵng. Thời gian nghiên cứu từ tháng 3/2019 đến tháng 5/2019.* Các chỉ tiêu nghiên cứu Tuổi, chiều cao, cân nặng, ASA, thời gian phẫu thuật, huyết áp động mạch trung bình HAĐMTB, tần số tim, SpO2, thời gian giảm đau trung bình của nhóm nghiên cứu, thang điểm VAS khi nghỉ ngơi và khi vận động tại các thời điểm nghiên cứu, mức độ hài lòng của người bệnh, các tác dụng không mong muốn buồn nôn, nôn,run, ngứa, vị đắng kim loại ở miệng, khó thở...* Thời điểm nghiên cứu Trước khi gây tê T0, sau khi gây tê 15 phút T1, sau gây tê 1h T2, sau gây tê 6h T3, sau gây tê 12h T4, sau gây tê 24h T5. Cách tiến hành* Chuẩn bị bệnh nhânBệnh nhân khám gây mê trước mổ, đánh giá toàn trạng bệnh nhân, cận lâm sàng và giải thích quá trình thực hiện các phương pháp vô cảm và giảm đau sau mổ cho bệnh nhân hiểu rõ. Tại phòng mổ Định danh bệnh nhân, giải thích lại về quy trình thực hiện phương pháp vô cảm và giảm đau sau mổ cho bệnh nhân.* Chuẩn bị phương tiện dụng cụKim gây tê tủy sống 27 bút chì hoặc kim 29GKim gây tê thần kinh ngoại vi Stimuplex A của hãng B-Braun, máy siêu âm VividTMiq của hãng GEThuốc gây tê bupivacain 0,5%, levobupivacain 0,5%, fentanyl, cấp cứu atropin, ephedrin, phenylephrin, adrenalin, noradrenalin, lipid emulsion 20%.Thuốc gây mê propofol, suxamethonium, sevofluran, theo dõi, máy gây mê, máy GTTS, bộ gây tê thần kinh ngoại vi, găng phẫu thuật vô khuẩn, gạc vô khuẩn, betadine 10%, băng dính, nội khí quản cấp cứu Mask mặt, đèn đặt NKQ, lưỡi đèn, ống NKQ, phụ được siêu âm cột sống đánh dấu xác định vị trí khe đốt sống thắt lưng tại khu tiếp đón hoặc trong phòng mổ.*Tiến hànhTại phòng mổ Chuẩn bị và tiến hành gây tê tủy sống để mổ lấy thai thường quy theo quy trình và phác đồ của bệnh phòng hồi tỉnh Sau khi kết thúc cuộc mổ, chuyển bệnh nhân ra phòng hồi tỉnh tiếp tục theo dõi Nhịp tim, HA, SpO2, nhịp thở, điểm đau VAS. Khi điểm đau VAS khi vận động ≥ 4, tiến hành là kỹ thuật gây tê cơ vuông thắt lưng hai bên. Tiêm levobupivacain 0,5% liều 1,5mg/kg phối hợp dexamethason 2mg cho 1 bên. Liều tối đa cho 1 bên levobupivacain 0,5% là bệnh nhân nằm nghiêng bên trái, bác sĩ gây mê rửa tay thường quy bằng cồn, đi găng vô khuẩn. Bọc đầu dò convex của máy siêu âm VividTMiq của hãng GE vô khuẩn, sát trùng vùng gây tê bằng betadin 10%. Đặt đầu dò phía trên mào chậu xác định vị trí cơ vuông thắt lưng. Chọc kim đi trong mặt phẳng cắt in-plane theo hướng dẫn của siêu âm tới phía sau bên cơ vuông thắt lưng QL2, đảm bảo nhìn rõ toàn bộ kim gây tê trên màn hình máy siêu âm, bơm thử bóc tách cân cơ vuông thắt lưng bằng dung dịch natriclorid 0,9%, sau đó bơm thuốc tê với 5ml/lần kèm hút bơm tiêm kiểm tra xem có máu hay không. Kết thúc kỹ thuật dán băng dính urgo vị trí bệnh nhân nghiêng phải và thực hiện kỹ thuật giống như đặt bệnh nhân nghiêng dõi sau gây tê Nhịp tim, nhịp thở, HA bệnh nhân sau khi gây tê tại các thời điểm nghiên bệnh nhân đau, điểm VAS ≥ 4 thì cho thêm các thuốc giảm đau perfalgan 1g truyền tĩnh mạch trong vòng 15 phút và voltarel 100mg đặt hậu môn. Các ngày tiếp theo dùng efferalgan 500mg uống 4lần/ngày và voltarel 100mg đặt hậu môn khi điểm đau VAS ≥ 4* Xử lý số liệu Số liệu được xử lý bằng các thuật toán thống kê y học. Kết quả Bảng 1 Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu Số liệu trình bày Trung bình ± độ lệch chuẩn, số bệnh nhân phần trămBảng 2 Thời gian giảm đau sau mổ, mức độ hài lòng của người bệnh, tác dụng không mong muốn của phương pháp Biểu đồ 1 Ảnh hưởng của phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng lên nhịp tim, huyết áp, SpO2 Biểu đồ 2 Giá trị của điểm đau VAS nghỉ ngơi và VAS vận động tại các thời điểm nghiên cứu Bàn Luận Đặc điểm chung nhóm nghiên cứuTuổi trung bình trong nhóm nghiên cứu là 31,48 ± 3,78 tuổi, tương tự như nghiên cứu của Nguyễn Trung Kiên13 và cộng sự tuổi trung bình 29,5 ± 4,97 tuổi. Chiều cao trung bình trong nhóm nghiên cứu là 154,95 ± 3,73 cm tương tự như nghiên cứu của Nguyễn Trung Kiên13 và Nguyễn Thế Tùng14. Cân nặng trung bình trong nghiên cứu là 50,35 ± 4,63 kg. Trong nghiên cứu này chúng tôi lấy cân nặng trước khi mang thai để xác định lượng thuốc cần gây tê cơ vuông thắt lưng nên có sự khác biệt với các tác giả sử dụng cân nặng lúc mang thai trong các nghiên cứu về các phương pháp vô cảm trên mổ lấy thai Nguyễn Trung Kiên13, Nguyễn Thế Tùng14. Thời gian phẫu thuật trong nghiên cứu là 40,88 ± 6,19 phút, tương tự trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Trung Kiên9 là 41,3 ± 11,15 gian giảm đau sau mổ, thuốc giảm đau dùng phối hợp sau mổThời gian giảm đau sau mổ của nhóm nghiên cứu là 21,57 ± 5,07 giờ. Theo dõi sau gây tê cơ vuông thắt lưng trong 24h, dấu hiệu sinh tồn của bệnh nhân ít có sự thay đổi, 10/40 bệnh nhân phải dùng phối hợp thêm các thuốc giảm đau perfalgan và voltarel chiếm tỷ lệ 25%, bệnh nhân phải dùng sớm nhất là sau 6 giờ, muộn nhất sau 23 giờ, không có bệnh nhân nào phải dùng đến liều thuốc giảm đau thứ 2 trong vòng 24 giờ đau sau mổ, không có bệnh nhân nào phải dùng đến morphin. Tác giả Marcin. M11 nghiên cứu tác dụng giảm đau sau mổ lấy thai khi gây tê cơ vuông thắt lưng bằng thuốc ropivacain 0,375%, từ khi bệnh nhân gây tê đến khi phải dùng liều morphin đầu tiên là 618,4 ± 128,21 phút 10,31± 2,14 giờ, thời gian giảm đau dài nhất là 990 phút 16,5 giờ, có 2 bệnh nhân phải dùng tới thuốc giảm đau sau khi gây tê 4-8 giờ. So sánh với tác giả Marcin. M11 thời gian giảm đau trong nhóm nghiên cứu kéo dài hơn, do trong nghiên cứu chúng tôi gây tê ở vị trí sau bên cơ vuông thắt lưng QL2 so với vị trí mặt trước của cơ vuông thắt lưng QL1 của tác giả. Theo Balanco4,5 gây tê cơ vuông thắt lưng phía sau bên cơ vuông thắt lưng QL2 thuốc tê lan vào khoang cạnh cột sống hơn gây tê QL1 phía trước của cơ vuông thắt lưng, do đó có tác dụng giảm đau dài và cũng có tác dụng giảm đau tạng. Trong nghiên cứu của tác giả có 11/28 bệnh nhân phải dùng morphin trong vòng 24 h đầu tiên sau gây tê chiếm tỷ lệ 33% so với của chúng tôi là 25%, tuy nhiên chúng tôi chỉ sử dụng perfalgan truyền tĩnh mạch và voltarel đặt hậu môn. Theo như Marcin. M6 mức độ sử dụng thuốc giảm đau morphin nhóm có gây tê cơ vuông thắt lưng giảm có ý nghĩa thống kê so với nhóm dùng thuốc giảm đau morphin thông thường. Ilana Sebbag và cộng sự8 khi nghiên cứu 3 ca bệnh có sử dụng gây tê cơ vuông thắt lưng phối hợp với acetaminophen 650mg và ketorolac 15mg để giảm đau sau mổ lấy thai thì thấy trong vòng 24h đầu sau mổ bệnh nhân không có nhu cầu dùng thêm thuốc giảm đau đau VASTrên biểu đồ 2, điểm đau VAS khi nghỉ ngơi và vận động cao nhất ở thời điểm T0 lần lượt là 1,25 và 4,07. Điểm đau VAS được đo trước khi gây tê, khi mà gây tê tủy sống đã gần hết tác dụng, bệnh nhân đã phục hồi được vận động co được đầu gối, cử động chân; đau vết mổ khi ho, hoặc nằm nghiêng, nên chúng ta thấy điểm VAS khi vận động cao hơn điểm VAS khi nghỉ. Điểm VAS thấp nhất ở thời điểm T1, ngay sau gây tê 1 giờ, sau đó tăng lên đến thời điểm sau gây tê 24 giờ nhưng bệnh nhân vẫn cảm thấy thoải mái. Điểm VAS vận động là 2,02, VAS nghỉ ngơi là 0,65. Trong nghiên cứu của Marcin. M6 điểm NRS thấp nhất ở thời điểm sau 2 giờ. Tuy nhiên trong nghiên cứu của tác giả chỉ đánh giá bằng điểm đau NRS khi nghỉ, không đánh giá điểm đau của bệnh nhân khi vận động. Nghiên cứu của Sebbag và cộng sự8 thì thấy điểm đau thấp trong vòng 24 giờ đầu sau độ hài lòng của người bệnhTỷ lệ hài lòng và rất hài lòng sau gây tê cơ vuông thắt lưng lần lượt là 42,5% và 57,5%. Nghiên cứu của Sebbag và cộng sự8 trên 3 bệnh nhân thì ca 3 bệnh nhân đều rất hài lòng. Bệnh nhân không có các triệu chứng ngứa, buồn nôn, nôn như khi áp dụng giảm đau sau mổ lấy thai có phối hợp thuốc tê và morphin để gây tê tủy sống. Bệnh nhân có thể thay đổi tư thế cho con bú, không phải dùng thuốc giảm đau họ morphin, do đó ít ảnh hưởng đến nuôi con bằng sữa mẹ. Một số bệnh nhân có thể vận động sớm sau 12 giờ để tránh các biến chứng sau mổ. Kết quả Phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng hai bên có tác dụng giảm đau sau mổ lấy thai. Thời gian giảm đau sau mổ lấy thai của phương pháp là 21,57 ± 5,07 giờ. Tỷ lệ hài lòng và rất hài lòng của người bệnh về phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng lần lượt là 42,5% và 57,5%. Phương pháp không ghi nhận các tác dụng phụ như buồn nôn, nôn, ngứa...Để biết thêm thông tin chi tiết, Quý khách hàng vui lòng liên hệ với các Bệnh viện và phòng khám thuộc hệ thống Y tế Vinmec trên toàn quốc Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. Tài liệu tham khảo Anders Krohg, Kyrre Ullensvang, Leiv Arne Rosseland 2018. Quadratus lumborum block after ceasarean delivery A Randomized Clinical Trial. Anesthesia-Anagesia. Vol 126, No 2, p FW, Laffey JG, Halpern SH, et al 2013. Duration of analgesic effectiveness after the posterior and lateral transversus abdominis plane block techniques for transverse lower abdominal incisions a meta-analysis. Br J Anaesth. 111721-35;Blanco R 2007. TAP block under ultrasound guidance the description of a non pops technique’. Regional Anesthesia and Pain Medicine. 32p. R 2014. Optimal point of injection the quadratus lumborum type I and II blocks. Anaesthesia. R, Ansari T, Girgis E 2015. Quadratus lumborum block for postoperative pain after caesarean section a randomised controlled trial. Eur J Anaesth. 111; Rafael, Ansari 2016. Quadratus lumborum block versus Transversus abdominis plane block for postoperative pain after Cesarean Delivery A randomized controlled trial. Regional Anesthesia and Pain Medicine. 41 Ueshima, Hiroshi Otake 2017. Ultrasound-guided Quadratus Lumborum Block An Updated Review of Anatomy and Techniques. Hindawi, BioMed Research Intenatioal. Vol 2017, Article ID 2752876, Sebbag, Fatemah Qasem, Shalini Dhir 2016. Ultrasound guided quadratus lumborum block for analgesia after cesarean delivery case series. Rev Bras Anesthesiol. 674 NN, O’Neill S, Ventham NT, Barron F, Brady RR, Daniel T 2012. Clinical effectiveness of transversus abdominis plane TAP block in abdominal surgery a systematic review and meta-analysis. Colorectal Dis. 14 635–642Loane H, Preston R, Douglas MJ, et al 2012. A randomized controlled trial comparing intrathecal morphine with transversus abdominis plane block for post-cesarean delivery analgesia. Int J Obst Anesth. 21212-218;Marcin Mieszko Mieszkowski 2018. Evaluation of the effectiveness of the Quadratus Lumborum Block type I using ropivacaine on postoperative analgesia after a ceasarean section-a controlled clinical study. Via Medica, Ginekologia Polska. Vol 89, No 2, JG, Curley G, Carney J, et al 2008. The analgesic efficacy of transversus abdominis plane block after ceasarean delivery a randomized controlled trial. Anesth Analg. 106186-191Nguyễn Trung Kiên và cs 2019. Gây tê tủy sống trong mổ lấy thai bằng Bupivacain So sánh tính liều theo chiều cao và cân nặng với chiều cao đơn thuần. Tạp chí Y - Dược học Quân sự. 2019, 3, Thế Tùng 2008. Đánh giá tác dụng của gây tê tủy sống liều thấp kết hợp fentanyl trong mổ lấy thai. Luận văn thạc sĩ y học, Học viện Quân CM, Emerson S, Volgoropoulos D, et al 1999. Dose-response relationship of intrathecal morphine for postcesarean analgesia. Anesthesiology. 90437-44;Rathmell JP, Pino CA, Taylor R, et al 2003. Intrathecal morphine for postoperative analgesiaa randomized, controlled, dose-ranging study after hip and knee arthroplasty. Anesth Analg. 971452-1457. Công nghệ Plasma lạnh giúp nhanh liền vết thương sau sinh đẻ XEM THÊM Các phương pháp gây tê giảm đau khi sinh mổ hiện đang áp dụng tại bệnh viện Vinmec? Sau sinh mổ ăn khoai lang được không? Chăm sóc vết khâu tầng sinh môn sau sinh
Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Bác sĩ chuyên khoa I Lê Thị Phương - Khoa sản phụ khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Hạ Long. Bác sĩ Lê Thị Phương đã có 29 năm kinh nghiệm trong ngành sản phụ khoa. Mổ lấy thai là phẫu thuật lấy thai nhi, nhau và màng ối qua một vết mổ ở thành bụng vào tử cung đang nguyên vẹn. So với sinh ngả âm đạo, mổ lấy thai được áp dụng trong những trường hợp cấp bách, cần thiết phải lấy thai ra nhằm làm giảm những nguy hiểm cho thai nhi và người mẹ. 1. Nguyên nhân phải phẫu thuật mổ lấy thai Những nguyên nhân phải mổ lấy thai là doKhung chậu của mẹ bất thường Nếu không phải là ngôi chỏm thì đều phải mổ lấy thai, nếu là ngôi chỏm thì cũng phải mổ lấy thai trong trường hợp khung chậu hẹp tuyệt đối, khung chậu méo; làm nghiệm pháp lọt ngôi chỏm để thử thách cho sinh đường dưới nếu khung chậu giới hạn thai không to, nếu thất bại thì có chỉ định sinh ra của thai bị cản trở như Khối u tiền đạo, thường hay gặp là u xơ ở eo tử cung hay cổ tử cung, u nang buồng trứng, các khối u khác nằm trên đường thai đi ra; nhau tiền đạo trung tâm hay nhau tiền đạo gây chảy máu nhiều buộc phải mổ cấp cứu để cầm máu cứu cung người mẹ có sẹo mổ trong trường hợp Các sẹo mổ ở thân tử cung bị sẹo bóc u xơ, sẹo của phẫu thuật tạo hình tử cung, sẹo khâu chỗ vỡ, chỗ thủng tử cung, sẹo của phẫu thuật cắt xén góc tử cung, sừng tử cung; sẹo của phẫu thuật mổ ngang đoạn dưới tử cung từ hai lần trở lên hoặc lần mổ lấy thai trước cách chưa được 24 phụ bị bệnh lý nguy hiểm Chỉ định phẫu thuật lấy thai vì người mẹ bị các bệnh lý toàn thân mạn tính hay cấp tính nếu sinh đường dưới có thể có nguy cơ cho tính mạng người mẹ bệnh tim nặng, tăng huyết áp, tiền sản giật nặng và sản giật; các bất thường ở đường sinh dục dưới của người mẹ như chít hẹp âm đạo bẩm sinh hay mắc phải, tiền sử mổ rò, mổ sa sinh dục; các dị dạng của tử cung như tử cung đôi tử cung không có thai thường trở thành khối u tiền đạo, tử cung hai sừng....Các vấn đề về thai nhi Chỉ định mổ khi thai bị suy dinh dưỡng/chậm tăng trưởng trong tử cung nặng, hoặc thai to > không phải do thai bất thường; thai nhi bị bất đồng nhóm máu với mẹ nếu không lấy thai ra thì có nguy cơ thai bị chết lưu trong tử cungTiền sử thai phụ Thai phụ con so có tuổi từ 35 trở lên. Có thể kèm theo hay không lý do vô sinh tiền sử điều trị vô sinh, con hiếm. Thai phụ có tiền sử điều trị vô sinh thì nên thực hiện mổ lấy thai Các vấn đề ngôi thai Các ngôi bất thường như ngôi vai/ngang, ngôi trán, ngôi thóp trước, ngôi mặt cằm sau, ngôi mông và bất tương xứng đầu thai với khung thai nếu thai thứ nhất không phải là ngôi thường trong quá trình chuyển dạ Chỉ định mổ lấy thai vì bất thường trong chuyển dạ như cơn co tử cung bất thường sau khi đã dùng các loại thuốc tăng co hay giảm co để điều chỉnh mà không thành công; cổ tử cung không xóa hay mở mặc dù con cơ tử cung đồng bộ, phù hợp với độ mở cổ tử cung; ối vỡ non/sớm làm cuộc chuyển dạ ngừng tiến triển, giục sanh thất tai biến khác Chỉ định mổ lấy thai vì các tai biến trong chuyển dạ như chảy máu vì nhau tiền đạo, nhau bong non; dọa vỡ và vỡ tử cung; sa dây rốn khi thai nhi còn sống; sa chi sau thai nhi khi đã thử đẩy lên nhưng không thành công. 2. Lưu ý trong quy trình kỹ thuật mổ lấy thai Chuẩn bị trước khi mổ lấy thaiNgười bệnh và người nhàĐược tư vấn đầy đủ lý do và nguy cơ tai biến có thể xảy ra khi phẫu thuật lấy thai, ký giấy cam kết phẫu thuậtChuẩn bị từ đêm trước mổ Uống an thần lúc 20h; nhịn ăn từ 22h; thụt tháo lúc 5h sáng ngày mổVệ sinh vùng bụng và TSMNgười thực hiệnKíp hộ sinh khoa chuẩn bị bệnh mổKíp gây mê hồi sứcKíp phẫu thuậtKíp chăm sóc sơ sinh khi cần hồi sức sơ sinhPhương tiện, dụng cụ, thuốcBộ dụng cụ, thuốc dùng gây tê tủy sống/ngoài màng cứng, gây mê toàn thânBộ dụng cụ mổ lấy thai đã tiệt trùngPhương tiện chăm sóc và hồi sức sơ sinhThuốc để hồi sức và các thuốc dùng trong sản khoa, sơ Các bước tiến hành mổ lấy thaiBước 1. Vô cảmGây mê toàn thân hoặc gây tê ngoài màng cứng hoặc gây tê tủy sốngBước 2. Vào ổ bụngRạch đường giữa dưới rốn hay đường ngang trên vệ tùy theo khả năng của phẫu thuật viên, tình trạng sản phụ và thai nhiRạch lớp mỡ dưới daRạch đường trắng giữa 2 cơ thẳng bụng có thể rạch 1 đoạn nhỏ rồi tách bằng ngón tay nếu mổ theo đường dọcNếu quy trình kỹ thuật mổ lấy thai theo đường ngang thì rạch cân về 2 bên theo đường mổ đó, tách cân khỏi lớp cơ rộng lên trên rồi mới mở đường giữa 2 cơ thẳng bụngVào phúc mạc bằng cách phẫu thuật viên cặp phúc mạc bằng kẹp phẫu tích không răng, phụ mổ cặp phúc mạc bên đối diện bằng kẹp cầm máu không răng. Phẫu thuật viên và phụ mổ lần lượt nhả ra và cặp trở lại rồi mới dùng dao hay kéo mở 1 lỗ ở phúc mạc. Dùng kéo mở rộng phúc mạc lên phía trên và dướiChèn gạc ướt 2 bên, chừa dây ra ngoàiĐặt van trên vệ che bàng quang và bộc lộ rõ vùng đoạn dưới tử cungRạch phúc mạc theo đường ngang khoảng 2cm dưới “đường bám chặt của phúc mạc”Dùng kéo cong đầu tù tách phúc mạc bóc được của đoạn dưới lên trên và xuống dưới, mũi kéo cong lên trên tránh tổn thương động mạch tử cungDùng dao rạch một đoạn nhỏ ngang 1-2 cm trên đoạn dưới rồi dùng 2 ngón tay trỏ xé rộng vết mổ ngang sang 2 bênBước 3. Lấy thai và nhau ra khỏi tử cungPhẫu thuật viên lấy thai bằng bàn tay trái trong khi người phụ hút máu và nước ối nếu đầu quá cao có thể dùng ForcepsSau khi phần chỏm lộ ra ngoài vết mổ, người phụ ấn đáy tử cung để giúp đầu thai nhi sổ ra ngoài. Trường hợp ngôi ngang lấy thai bằng chân thai nhi. Nếu là ngôi ngược lấy thai bằng mông ngôi ngược kiểu mông hoặc bằng chân ngôi ngược hoàn toànLau khô, Kẹp cắt rốn chậm, chuyển thai ra ngoài lau sạch, cho bé nằm trên ngực mẹ nếu mẹ được gây tê tủy sống hay ngoài màng cứngCho 10 đơn vị oxytocin vào chai dịch truyền đang chảy và cho chảy nhanh để tử cung co hồi tốt không tiêm oxytocin trực tiếp vào tĩnh mạchTiến hành lấy rau, lau sạch buồng tử cung bằng gạc to. Nếu khi mổ lấy thai, sản phụ chưa chuyển dạ, nong cổ tử cung bằng ngón tay rồi thay gang Mổ lấy thai Bước 4. Khâu phục hồi cơ tử cungPhục hồi cơ đoạn dưới tử cung bằng chỉ Vicryl 0, bắt đầu bằng khâu 2 góc tử cung, tránh sót gócTiếp tục khâu cơ tử cung mũi liên tục hay mũi rời cách nhau 1cm, có thể khâu thêm lớp thứ 2 để vùi lớp đầu, kiểm tra cầm máuPhủ phúc mạc tử cung bằng chỉ Catgut 00 bằng mũi khâu liên tục, kiểm tra cầm máuBỏ van trên vệ, lấy gạc, lau sạch ổ bụng, kiểm tra 2 buồng trứng, 2 ống dẫn trứng, mặt sau tử cung và túi cùng Douglas phía sauBước 5. Đóng bụngKhâu phúc mạc thành bụng bằng chỉ Catgut 00 bằng mũi khâu liên tụcKhâu 2 cơ thẳng bụng cho sát vào nhau bằng 2-3 mũi Catgut khâu rờiKhâu cân bằng chỉ Vicryl 0. Nếu lớp mỡ dày thì khâu bằng chỉ Catgut mũi rời hoặc mũi liên tụcKhâu da bằng chỉ lanh, mũi rời hoặc khâu liên tục dưới da bằng chỉ Vicryl nhỏSát khuẩn lại vết mổ và băng vô khuẩnPhẫu thuật viên giữ tay sạch để lấy máu ứ trong âm đạo và xem tử cung co hồi tốt hay không, sát khuẩn âm đạoLau sạch máu dính trên người bệnh trước khi chuyển qua hồi sức 3. Chăm sóc sau mổ lấy thai Về phía bác sĩTrong tuần đầu tiên sau phẫu thuật lấy thai, vết mổ vẫn chưa khô nên các bác sĩ sản phụ khoa và nữ hộ sinh sẽ chăm sóc cho sản phụ và vệ sinh vết sĩ sẽ cho các thuốc giảm đau, thuốc kháng sinh hay thuốc co hồi tử cung để tránh các biến chứng như nhiễm trùng. Việc dùng thuốc giảm đau sau đẻ mổ là hoàn toàn bình thường, vì không hề ảnh hưởng đến chất lượng sữa, do vậy nếu các cơn đau đã vượt quá ngưỡng chịu đựng, thì các sản phụ nên yêu cầu bác sĩ cho thuốc giảm Về phía người mẹChế độ dinh dưỡngSản phụ không được phép ăn gì trong vòng 6 giờ sau mổ lấy thai, vì lúc này nhu động ruột của bạn đang ở mức rất thấp, đường ruột ứ ra nhiều khí, dạ dày hoạt động yếu nên sẽ rất khó tiêu hóa khiến cơ thể càng mệt mỏi, lâu hồi phục. Do vậy, các bà mẹ chỉ nên uống nước lọc, nước đường, ăn cháo loãng cho tới khi xì ngày tiếp theo, các bà mẹ ăn uống như bình thường, tăng cường thức ăn giàu đạm và canxi, đồng thời uống nhiều nước để có nhiều sữa cho con bú và tránh táo bón;Không dùng các loại thực phẩm dễ gây tiêu chảy hoặc dị ứng, gây sẹo lồi thịt gà, thịt bò, hải sản, rau muống.... Nên ăn các thức ăn giàu dinh dưỡng như đạm đường, sắt, rau củ tươi quả nấu chín. Sản phụ sau sinh tăng cường thức ăn giàu đạm và canxi, đồng thời uống nhiều nước Vệ sinh cơ thểThời gian này, mẹ nên lau người bằng nước ấm hoặc tắm nhanh chóng, tránh việc ngâm cơ thể trong bồn tắm khiến vết mổ bị tắm xong, sản phụ nên dùng bông sạch thấm khô vết mổ, để vết mổ hở không cần băng kín, giữ cho vết mổ luôn khô sạch. Có thể vệ sinh vết mổ bằng dung dịch betadin hoặc povidine 10%, giúp vết mổ sẽ nhanh liền sẹo và tránh nhiễm trùng. Không được thoa các loại thuốc kháng sinh, đắp lá trầu, tỏi giã lên vết động cơ thểNgay sau khi ống thông tiểu được lấy ra, sản phụ đã có thể bước xuống giường và tập đi bộ trở lại. Trước đó, các mẹ nên cử động tay chân nhẹ nhàng hoặc ngồi với những sản phụ đã trải qua giai đoạn chuyển dạ quá khó trước khi quyết định sinh mổ hoặc cuộc phẫu thuật lấy thai khó khăn mất nhiều máu thì cần phải nghỉ ngơi để phục hồi năng lượng trước khi di thể dục rất tốt và thúc đẩy nhanh quá trình hồi phục sau sinh, nhưng nếu đẻ mổ thì vẫn cần từ 4-6 tuần sau sinh mới được tập luyện trở Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec, Sản phụ sinh mổ ở Vinmec được giảm đau trong ngày đầu sau mổ bằng phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng, giúp mẹ chăm bé và phục hồi sức khỏe tốt hơn. Đây là một kỹ thuật gây tê giảm đau vùng được Vinmec thực hiện nhằm giúp ngăn chặn tín hiệu đau trước khi nó được truyền vào cột sống và lên não, gây ra những cơn đau sau mổ cho sản cạnh kỹ thuật gây tê cơ vuông thắt lưng dưới hướng dẫn siêu âm, trong sản khoa, Vinmec còn triển khai kỹ thuật gây tê thần kinh thẹn giảm đau tầng sinh môn & hạ vị, giúp sản phụ trải nghiệm cuộc sinh một cách dễ chịu nhất, dù đó là sinh thường hay sinh mổ. Nhờ những biện pháp này, sản phụ sinh con tại Vinmec được giảm đau trọn vẹn, hồi phục nhanh, nhu động ruột sớm hoạt động trở lại, tập vận động - đi lại được sớm, không gây đau mạn quả đánh giá hiệu quả giảm đau gần đây nhất cho thấy ’Toàn bộ sản phụ sinh mổ đều không phải sử dụng morphin, tình trạng đau sau sinh khi vận động và sinh hoạt gần như không còn được ghi nhận’’ Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. Cận cảnh mổ đẻ ở Vinmec An toàn, giảm đau, trọn vẹn hạnh phúc! XEM THÊM Vì sao vết mổ lành, người bệnh vẫn còn đau? Bất tương xứng đầu chậu Cách giảm đau sau phẫu thuật tại Vinmec có gì đặc biệt?
Quy trình phẫu thuật lấy thai 28/11/2016 I. ĐẠI CƯƠNG – Phẫu thuật lấy thai là phẫu thuật nhằm lấy thai ra khỏi tử cung sau khi mở bụng và mở tử cung. II. CHỈ ĐỊNH 1, Do nguyên nhân từ thai. – Các chỉ định do ngôi thai bất thường. – Thai to – Thai suy – Bệnh lý của thai có chống chỉ định đẻ đường âm đạo 2, Do nguyên nhân phần phụ của thai. 3, Do nguyên nhân đường sinh dục. 4, Do bệnh lý của mẹ 5, Những chỉ định khác III. CHUẨN BỊ 1. Người thực hiện – Kíp gây mê hồi sức. – Kíp phẫu thuật. – Nữ hộ sinh chăm sóc sơ sinh. 2. Phương tiện, dụng cụ, thuốc – Bộ dụng cụ, thuốc dùng gây tê tủy sống, gây mê toàn thân. – Bộ dụng cụ mổ lấy thai đã tiệt trùng. – Phương tiện chăm sóc và hồi sức sơ sinh. – Các thuốc để hồi sức và các thuốc dùng trong sản khoa. 3. Người bệnh – Được giải thích đầy đủ lý do phẫu thuật lấy thai, ký giấy cam đoan phẫu thuật. – Thông đái, sát khuẩn thành bụng, trải khăn vô khuẩn sau khi đã được giảm đau. IV. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH Thì 1. Mở bụng – Có thể đường trắng giữa dưới rốn hoặc đường ngang trên mu. – Bộc lộ vùng mổ chèn gạc, đặt van vệ. Thì 2. Mở phúc mạc đoạn dưới tử cung. Thì 3. Rạch ngang cơ tử cung đoạn dưới đến màng ối – Mở đoạn dưới tử cung ở ngay giữa lưu ý tránh chạm vào phần thai ở ngay dưới. Mở rộng vết rạch tử cung sang hai bên. Đường mở tử cung song song với đường mở phúc mạc đoạn dưới. – Đường rạch ngang đoạn dưới khoảng 8-10cm . Thì 4. Lấy thai và rau – Lấy thai lấy đầu thai nếu là ngôi đầu, lấy chân thai hay mông thai nếu là các ngôi còn lại. – Dùng miếng gạc mỏng lau nhớt miệng trẻ. – Kẹp và cắt dây rốn. – Tiêm tĩnh mạch chậmqua dây truyền 10 đơn vị oxytocin. Lấy rau bằng cách kéo dây rốn và ấn đáy tử cung qua thành bụng. Làm sạch buồng tử cung. Nong cổ tử cung nếu cần. – Kiểm tra và kẹp các mạch máu lớn đang chảy. Thì 5. Khâu vết rạch tử cung và phúc mạc – Khâu phục hồi lớp cơ tử cung bằng chỉ tiêu số 1. Có thể bằng mũi rời hay khâu vắt có khóa hay không có khóa. Mũi khâu lấy toàn bộ chiều dày lớp cơ tử cung. Không nên khâu cả lớp nội mạc tử cung. Thông thường khâu một lớp là đủ. Nếu cần thì khâu vắt lớp thứ hai để cầm máu và che phủ lớp khâu thứ nhất. – Phủ phúc mạc đoạn dưới tử cung bắt buộc khi có nguy cơ nhiễm khuẩn. Thì 6. Lau sạch ổ bụng, kiểm tra tử cung, phần phụ và các tạng xung quanh, đếm đủ gạc Thì 7 Đóng thành bụng theo từng lớp. Thì 8 Lấy máu và lau âm đạo. V. THEO DÕI CHĂM SÓC SAU PHẪU THUẬT 1. Theo dõi sau phẫu thuật. – Mạch, huyết áp, toàn trạng, bài tiết nước tiểu. – Co hồi tử cung, lượng máu chảy từ tử cung ra. – Vết mổ thành bụng. – Trung tiện. 2. Chăm sóc. – Cho thuốc giảm đau sau phẫu thuật. – Cho sản phụ uống, ăn sớm uống, thức ăn lỏng khi chưa trung tiện, ăn bình thường khi đã có trung tiện. – Vận động sớm. – Cho con bú sớm. – Kháng sinh điều trị nếu cần. VI. BIẾN CHỨNG 1. Trong phẫu thuật – Chảy máu – Chấn thương thai nhi – Chấn thương ruột – Rạch vào bàng quang – Thắt vào niệu quản 2. Sau phẫu thuật – Nhiễm trùng vết mổ, tiểu khung, viêm phúc mạc toàn thể, nhiễm trùng huyết. – Chảy máu do nhiễm trùng vết mổ tử cung. PHẪU THUẬT LẤY THAI Ở TRUNG TÂM Y TẾ HUYỆN YÊN LẠC Tại trung tâm Y tế huyện Yên Lạc phẫu thuật lấy thai đã thành thường quy. 10 tháng đầu năm 2016 đã phẫu thuật thành công 45 ca phẫu thuật lấy thai. Mẹ và bé đều an toàn, khỏe mạnh. Khoa Phụ sản của Trung tâm Y tế huyện Yên Lạc là địa chỉ tin cậy của các sản phụ. Một số hình ảnh Phẫu thuật lấy thai tại trung tâm Niềm vui của cán bộ y tế khi đón cháu bé chào đời Tin liên quan
quy trình gây tê tủy sống mổ lấy thai